Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang tác động đến hầu hết các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng, theo đó, làn sóng chuyển đổi số của các ngân hàng đã và đang diễn ra mạnh mẽ, các ngân hàng Việt Nam đã có nhiều chuyển biến trong cấu trúc tổ chức, phương thức hoạt động, quản trị rủi ro, cung ứng dịch vụ nhằm thích ứng với thời đại kỷ nguyên số…
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã và đang rất tích cực, chủ động tập trung nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng và thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt; hoàn thiện hạ tầng công nghệ, hạ tầng thanh toán số; đẩy mạnh ứng dụng giải pháp công nghệ số phục vụ cho lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ tài chính; ứng dụng các giải pháp công nghệ chủ chốt nhằm thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0.
Về phía các tổ chức tín dụng (TCTD), đứng trước xu thế “bùng nổ” của CMCN 4.0 trên mọi lĩnh vực, đòi hỏi các TCTD phải chủ động và đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong quản lý và kinh doanh đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đây không chỉ là sứ mệnh, là tầm nhìn mà còn là chiến lược, nhiệm vụ của các TCTD, trong đó hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) sẽ đối diện với nhiều khó khăn và thách thức.
Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin của các Quỹ tín dụng nhân dân
Tình hình hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân
QTDND là TCTD do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã (HTX) để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật Các TCTD và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Theo số liệu tổng hợp của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, NHNN, toàn hệ thống QTDND hiện có 1.181 quỹ, hoạt động trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố. Đến ngày 30/6/2021, tổng tài sản của hệ thống QTDND gần 154,5 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay đạt gần 109 nghìn tỷ đồng; tiền gửi của khách hàng đạt hơn 138,8 nghìn tỷ đồng; vốn chủ sở hữu là hơn 10 nghìn tỷ đồng. Kết quả kinh doanh (Thu nhập – Chi phí): 980,5 tỷ đồng, tăng 23,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Tổ chức đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND là Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) – ngân hàng của tất cả các QTDND do các QTDND và một số pháp nhân góp vốn thành lập theo quy định của Luật các TCTD, nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn trong hệ thống các QTDND2.
Đến ngày 30/6/2021, NHHTX có tổng tài sản gần 49 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay hơn 21,4 nghìn tỷ đồng; huy động tiền gửi của QTDND đạt hơn 37,7 nghìn tỷ đồng; vốn chủ sở hữu: 4.083,3 tỷ đồng (chiếm 8,3% so với tổng tài sản). Kết quả kinh doanh (Thu nhập – Chi phí) là 104 tỷ đồng.
Là Ngân hàng đầu mối của hệ thống QTDND, NHHTX tập trung vào hoạt động điều hòa vốn, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ khoản vay của khách hàng; hướng dẫn, đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, công nghệ thông tin (CNTT), hỗ trợ hoạt động ngân hàng đối với QTDND thành viên; tham gia xử lý đối với QTDND gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu mất an toàn trong hoạt động.
Thực trạng ứng dụng CNTT vào quản trị, điều hành và cung cấp sản phẩm, dịch vụ
Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân
Do đặc điểm hoạt động, hầu hết các QTDND có quy mô nhỏ hơn so với các loại hình TCTD khác, sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng phục vụ thành viên còn đơn điệu, trong khi áp lực cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay là khá gay gắt, do đó, việc ứng dụng CNTT là một yếu tố quan trọng giúp cho các QTDND tăng cường khả năng cạnh tranh đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thành viên.
Xác định được điều đó, thời gian qua, hệ thống QTDND đã trang bị được máy tính, máy in, hệ thống mạng đáp ứng cơ bản các yêu cầu hoạt động. Trình độ về tin học và chuyên môn của cán bộ, nhân viên của QTDND trong những năm gần đây đã được chú trọng từ công tác tuyển dụng và đào tạo. Các QTDND đã áp dụng giải pháp phần mềm vào hoạt động, được đánh giá là dễ dàng sử dụng, phù hợp với hệ thống QTDND và góp phần hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản trị, điều hành, quản lý hoạt động của QTDND một cách chính xác ở mọi thời điểm, giúp Ban lãnh đạo QTDND thực hiện công tác chỉ đạo, điều hành một cách khoa học, kiểm soát hạn chế được nhiều rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động và hình ảnh chuyên nghiệp của QTDND khi phục vụ khách hàng. Nhờ có hệ thống CNTT mà các QTDND đang từng bước phát triển mạnh mẽ, đúng hướng.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của QTDND còn một số tồn tại, khó khăn như:
– Hạ tầng máy tính, máy chủ, mạng, an ninh an toàn hệ thống còn đơn giản, lạc hậu; hầu hết các QTDND không có thiết bị tường lửa giữa mạng Internet và mạng nội bộ LAN, trong khi 50% QTDND có đường truyền kết nối Internet sử dụng cho việc truyền gửi báo cáo nối trực tiếp với máy chủ. Các QTDND hiện đang sử dụng chính máy tính để bàn để làm máy chủ, không có máy chủ dự phòng, sao lưu dữ liệu.
– Công tác quản trị hệ thống CNTT phụ thuộc chủ yếu vào các công ty cung cấp phần mềm, chỉ có khoảng 52% số QTDND có cán bộ chuyên trách CNTT, nhưng rất ít cán bộ CNTT có trình độ đại học.
– Các sản phẩm, dịch vụ của QTDND sử dụng phần mềm ứng dụng không nhiều, chủ yếu là huy động tiết kiệm và cho vay đối với thành viên. Hầu hết các QTDND sử dụng phần mềm ngân hàng lõi (Core Banking) để phục vụ nhu cầu nghiệp vụ cơ bản như tiền gửi, tiền vay, kế toán, nhưng chưa phải là phần mềm ngân hàng lõi hoàn thiện và cũng chưa thống nhất chung trong hệ thống QTDND.
Đối với NHHTX – tổ chức đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND
Hạ tầng CNTT: NHHTX là tổ chức đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND trong việc ứng dụng CNTT vào quản trị điều hành và cung cấp sản phẩm. Để phục vụ cho hoạt động của cả hệ thống QTDND, từ năm 2015, NHHTX đã triển khai thành công Trung tâm dữ liệu tập trung đặt tại Hưng Yên. Các cấu phần, hạng mục chính của Trung tâm dữ liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế TIA-942 cấp độ II/III.
Hệ thống ứng dụng: NHHTX đã đầu tư trang bị các phần mềm ứng dụng để phục vụ nhu cầu nghiệp vụ tại NHHTX cũng như hỗ trợ các QTDND, bao gồm: Hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking); hệ thống thanh toán chuyển tiền; hệ thống chuyển mạch (Switch); hệ thống xếp hạng nội bộ; hệ thống phê duyệt tín dụng; hệ thống khởi tạo khoản vay từ xa (RLOS); hệ thống Báo cáo thống kê của NHHTX; hệ thống thông tin báo cáo QTDND (PRMS); hệ thống văn phòng điện tử; hệ thống Mobile Banking; hệ thống eBank.
Mặc dù đã đạt được các kết quả bước đầu đáng khích lệ nhưng hệ thống CNTT của NHHTX hiện tại còn có một số hạn chế cần được khẩn trương hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và tương xứng với quy mô, vị thế của NHHTX – là ngân hàng của tất cả các QTDND, cụ thể:
– Về cơ sở hạ tầng: NHHTX chưa có Trung tâm dữ liệu dự phòng thảm họa đạt tiêu chuẩn, đủ khả năng thay thế cho Trung tâm dữ liệu chính khi có thảm họa xảy ra; hầu hết các hạng mục CNTT đều tận dụng nền tảng sẵn có nên còn lạc hậu, thiếu đồng nhất, không tích hợp được các sản phẩm với nhau…
– Các dịch vụ ngân hàng điện tử chưa đa dạng: NHHTX mới chỉ cung cấp các kênh giao dịch điện tử qua máy rút tiền tự động (ATM) và máy thanh toán bằng thẻ (POS). Các sản phẩm dịch vụ còn đơn giản, chưa có nhiều lựa chọn cho khách hàng. Hệ thống thẻ cũng mới ở mức cơ bản, mạng lưới ATM gần như chưa có, mạng lưới POS mới chỉ triển khai tại các chi nhánh, phòng giao dịch và khoảng 200 QTDND.
– Việc phát triển các hệ thống hỗ trợ quản lý còn hạn chế, các phần mềm mới chỉ đáp ứng những yêu cầu thông tin báo cáo cơ bản của NHNN và các cơ quan quản lý: Các phần mềm phục vụ quản trị điều hành nội bộ, phần mềm thông tin quản lý còn hạn chế, chưa có công cụ phân tích, chưa có các kênh phân phối tự động các báo cáo.
– Về công tác kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ ứng dụng CNTT của hệ thống QTDND chưa được xây dựng theo quy định của NHNN (Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
Cơ hội và thách thức của hệ thống QTDND trước xu hướng chuyển đổi số
Cơ hội
Đối với các TCTD, việc chuyển đổi số hiện nay không còn là sự lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc, là hướng đi chiến lược nhằm giúp các TCTD cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0. Chuyển đổi số hướng tới cung cấp dịch vụ ngân hàng số được xác định là đòn bẩy cho sự tăng trưởng của các TCTD. Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, một số chỉ tiêu được đặt ra như: Ít nhất 50% các nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số vào năm 2025 và đến năm 2030 là 70%. Chỉ tiêu về số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số (kênh tiếp xúc giữa khách hàng với ngân hàng có kết nối mạng Internet đạt ít nhất 70% năm 2025 và 80% năm 2030. Chỉ tiêu về tỷ lệ quyết định giải ngân, cho vay của ngân hàng thương mại, công ty tài chính đối với các khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng của khách hàng cá nhân được thực hiện theo hướng số hóa, tự động: đến năm 2025 đạt ít nhất 50% và đến năm 2030 đạt ít nhất 70%… Sự chuyển biến từ nhận thức, giờ đây đã trở thành chuyển biến trong hành động với các chỉ tiêu được lượng hóa cụ thể.
Hiện nay, có khoảng 94% ngân hàng bước đầu triển khai hoặc đang nghiên cứu, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, trong đó 59% ngân hàng đang triển khai chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng thương mại ứng dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (Artificial intelligence – AI), học máy (Machine Learning – ML) và Dữ liệu lớn (Big Data) để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân,… giúp đơn giản hóa quy trình thủ tục và rút ngắn thời gian giải ngân, cho vay. Ðáng chú ý, nhiều ngân hàng thương mại đã cho phép khách hàng mở tài khoản hoàn toàn trực tuyến trên ứng dụng điện thoại di động, thay vì phải đến tận ngân hàng để giao dịch như trước đây.
Báo cáo về các thiết bị di động của hãng Ericsson mới đây cho thấy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia có tốc độ người dân sử dụng thiết bị di động tăng nhanh nhất trên thế giới. Với hơn 64 triệu người đang sử dụng mạng Internet, chiếm gần 70% dân số; hơn 72% số người dân sử dụng điện thoại thông minh, Việt Nam trở thành thị trường tiềm năng cho phát triển ngân hàng số.
Đối với hệ thống QTDND, đối tượng khách hàng của QTDND là các khách hàng nhỏ, lẻ, các HTX ở vùng nông thôn với số lượng trên 2 triệu thành viên. Với số lượng khách hàng tiềm năng như vậy, đây là cơ hội cho các QTDND có thể mở rộng các sản phẩm, dịch vụ để những khách hàng này có thể tiếp cận được với sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thách thức
Thách thức về nguồn lực tài chính: Đây là một khó khăn, thách thức không nhỏ, nhất là đối với TCTD quy mô nhỏ như các QTDND, thậm chí năng lực tài chính của ngân hàng đầu mối của hệ thống QTDND là NHHTX cũng rất hạn hẹp.
Hiện nay, mỗi QTDND chi phí đầu tư cho hệ thống ngân hàng lõi bình quân 30 triệu đồng và chi phí cho hỗ trợ, bảo trì hằng năm khoảng 3 triệu đến 5 triệu đồng. Để các QTDND có thể tiếp cận được các ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi các QTDND phải đầu tư một khoản tiền không nhỏ, điều này là một trở ngại đối với các QTDND. Trong khi đó, nguồn lực NHHTX cũng hạn chế để đầu tư CNTT hỗ trợ cho các QTDND có thể tiếp cận được ứng dụng CNTT trong kỷ nguyên số.
Thách thức về nguồn nhân lực: Việc áp dụng các công nghệ mới như định danh khách hàng điện tử (eKYC), AI, Công nghệ chuỗi (Blockchain), Big Data,… đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn và nguồn nhân lực trình độ cao. Điều này đặc biệt khó khăn đối với các QTDND do hầu hết các QTDND đều không có cán bộ chuyên trách về CNTT.
Thách thức về đảm bảo an ninh bảo mật: Sự phát triển của công nghệ số kéo theo sự gia tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao, tin tặc – hackers hoạt động ngày càng thường xuyên. Các TCTD cần phải đầu tư hơn nữa về hạ tầng, các cơ chế bảo mật cao, cơ chế ngăn ngừa nhiều tầng để ngăn chặn các cuộc tấn công, đồng thời áp dụng những cách thức phòng thủ mới.
Thách thức từ thay đổi nhận thức, thói quen, hành vi của người tiêu dùng; việc bảo đảm an ninh an toàn và huy động, bố trí nguồn lực phục vụ chuyển đổi số.
Ngoài ra, một số vấn đề về pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật cũng là những thách thức cần phải giải quyết như: Sự đồng bộ và phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan đến giao dịch điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử; việc định danh và xác thực khách hàng điện tử; việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy trình nghiệp vụ,… với thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng; sự đồng bộ và chuẩn hóa hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành Ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng.
Định hướng phát triển hệ thống QTDND trong thời kỳ chuyển đổi số
Định hướng chuyển đổi số
Định hướng phát triển của hệ thống QTDND đã được nêu tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, nêu rõ, giai đoạn 2021 – 2025:
– Đối với NHHTX: Hoàn thiện việc xây dựng NHHTX thành ngân hàng của tất cả các QTDND nhằm mục tiêu chủ yếu là liên kết, đảm bảo an toàn của hệ thống qua việc hỗ trợ tài chính và giám sát hoạt động của các QTDND; hoạt động chủ yếu là điều hòa vốn, thực hiện các hoạt động ngân hàng và quản lý vận hành Quỹ đảm bảo an toàn hệ thống đối với thành viên là các QTDND; nghiên cứu, xây dựng Trung tâm thẩm định tín dụng độc lập nhằm hỗ trợ nâng cao chất lượng tín dụng của các QTDND thành viên.
– Đối với QTDND: Tiếp tục áp dụng các giải pháp đảm bảo các QTDND hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và nguyên tắc của loại hình TCTD là HTX, trong đó nâng cao tính tương trợ, liên kết giữa các thành viên; tập trung vào mục tiêu hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống của thành viên, phục vụ cộng đồng trên địa bàn; tiếp tục hoàn thiện cơ cấu, bộ máy quản trị điều hành, đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thiện hệ thống CNTT, đa dạng hóa và hiện đại hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của loại hình TCTD là HTX để phục vụ tốt hơn cho các thành viên, nghiên cứu thiết lập mối liên kết giữa các QTDND ngành nghề, giữa các QTDND ngành nghề với các QTDND khác, giữa các QTDND ngành nghề với NHHTX.
Theo đó, phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo cơ sở nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tới khu vực nông thôn, khó tiếp cận các điểm giao dịch của ngân hàng; khuyến khích hợp tác trong mối quan hệ cạnh tranh lành mạnh giữa ngân hàng và tổ chức công nghệ tài chính (Fintech), các tổ chức phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, hệ thống QTDND để phát triển mạng lưới đại lý cho ngân hàng với chi phí thấp; tạo môi trường pháp lý thích hợp cho việc phát triển các tổ chức công nghệ tài chính an toàn, hiệu quả; ban hành chuẩn kết nối giữa các TCTD với nhau và giữa các TCTD với các Fintech; có chính sách mở rộng các điểm tiếp cận tiền mặt và các hình thức thanh toán mới, hiện đại, tiện lợi, có chi phí hợp lý, dễ sử dụng, phù hợp với nhiều đối tượng người dân, đặc biệt là người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn trên cơ sở sử dụng mạng lưới sẵn có của các QTDND.
Bên cạnh đó, tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng đã nêu:
– Tăng cường năng lực các định chế tài chính chuyên biệt có định hướng hoạt động phù hợp với mục tiêu của tài chính toàn diện, trong đó có NHHTX, QTDND, phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được phê duyệt theo Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
– Phát triển đa dạng các tổ chức cung ứng, kênh phân phối hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản một cách thuận tiện, chi phí hợp lý, hướng tới phát triển mô hình đại lý ngân hàng nhằm mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ ngân hàng đến gần với người dân ở các vùng chưa hoặc ít có dịch vụ ngân hàng:
+ Nghiên cứu, triển khai từng bước hoạt động đại lý ngân hàng; ngân hàng đáp ứng đủ điều kiện theo quy định được mở các điểm cung ứng dịch vụ qua đại lý tại những nơi mật độ chi nhánh, phòng giao dịch của các TCTD còn thấp;
+ Nghiên cứu, tạo điều kiện cho các tổ chức không phải ngân hàng có mạng lưới rộng khắp hoặc địa bàn hoạt động tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (như các QTDND, các tổ chức tài chính vi mô, bưu điện, trạm xăng, mạng lưới của các tổ chức viễn thông, mạng lưới của một số tổ chức khác không phải ngân hàng…) trở thành đại lý của ngân hàng nhằm nhanh chóng mở rộng phạm vi các điểm cung ứng dịch vụ tài chính.
– Khuyến khích các TCTD phi ngân hàng, QTDND, tổ chức tài chính vi mô, doanh nghiệp bảo hiểm cung ứng sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ gia đình sản xuất kinh doanh.
Những giải pháp NHNN đã triển khai thực hiện phát triển hệ thống QTDND trong thời kỳ chuyển đổi số
Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN ký Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó nêu các giải pháp:
– Cải thiện hành lang pháp lý để các QTDND, NHHTX có thể đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tiện ích phục vụ cộng đồng, người dân; đảm bảo hoạt động đúng tôn chỉ mục đích, an toàn, hiệu quả.
– Xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT cho các QTDND, NHHTX để phục vụ tốt cho thành viên, cộng đồng.
Nhằm tạo điều kiện cho hoạt động chuyển đổi số, thời gian qua, NHNN đã chủ động nghiên cứu và ban hành quy định kịp thời, phù hợp như: Quy định liên quan đến mở tài khoản và nhận biết khách hàng bằng phương thức eKYC, cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật (QR, thẻ chip,…),…
Ngày 21/10/2020, NHNN đã ban hành Thông tư số 09/2020/TT-NHNN quy định về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng, trong đó đã bổ sung đối tượng áp dụng là các QTDND. Theo đó, các QTDND khi ứng dụng CNTT phải thực hiện phân loại các hệ thống thông tin theo cấp độ và triển khai các biện pháp an toàn bảo mật thông tin tương ứng.
Đồng thời, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của NHNN, từng bước tăng cường các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động, củng cố vững chắc hệ thống QTDND, NHNN đã xây dựng 2 bộ tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động và tiêu chuẩn phần mềm quản lý hoạt động của QTDND làm tài liệu tham khảo chung trong hệ thống QTDND để các QTDND thống nhất cách hiểu và thực hiện nghiệp vụ hoạt động đúng theo quy định pháp luật và hướng dẫn của NHNN để phục vụ việc quản trị, điều hành của bản thân QTDND và hoàn thiện các quy định nội bộ; phục vụ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra,… của NHNN Chi nhánh, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, NHHTX,…; hướng tới việc QTDND hiểu và xây dựng, vận hành phần mềm quản lý hoạt động đáp ứng yêu cầu về CNTT, quy định pháp luật có liên quan đến nghiệp vụ hoạt động; bảo mật thông tin theo quy định; nâng cao mức độ tin học hóa các nghiệp vụ của QTDND để tiết kiệm nhân sự, hiện đại hóa việc quản trị nội bộ và thực hiện nghiệp vụ hoạt động; hạn chế tối đa sự can thiệp, sai sót của cán bộ trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. Hướng tới chuẩn hóa thông tin, dữ liệu lưu trữ và truyền báo cáo đảm bảo đầy đủ, kịp thời đáp ứng các quy định về an toàn, phòng, chống rửa tiền, kế toán, kho quỹ, nhân sự,…
Một số đề xuất, kiến nghị để phát triển hệ thống QTDND trong thời kỳ chuyển đổi số
Để các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững, dần đưa hệ thống QTDND trở thành một trong những nền tảng trong hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó NHHTX giữ vai trò là tổ chức đầu mối của hệ thống QTDND, thì việc ứng dụng CNTT làm nền tảng là giải pháp có tính quyết định. Vì vậy, tác giả có một số đề xuất và kiến nghị như sau:
Đối với NHHTX, hệ thống QTDND
– Cần thay đổi tư duy, lấy khách hàng là trung tâm, chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu lớn cùng với việc thay đổi văn hóa kinh doanh, phương thức quản trị, đầu tư công nghệ, tích hợp kênh phân phối, tập trung nguồn lực để triển khai mạnh mẽ theo tốc độ thay đổi công nghệ và nhu cầu của khách hàng.
– Hướng dẫn và có các hình thức cung cấp thông tin cho khách hàng để nâng cao nhận thức của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng số. Từ đó, giúp thúc đẩy tạo lập môi trường ý thức về an toàn thông tin và nâng cao lòng tin của người sử dụng dịch vụ vào các hệ thống dịch vụ tài chính trực tuyến.
– Hợp tác với các nhà mạng trong việc xây dựng kho dữ liệu sinh trắc học và đây sẽ là nền tảng cực kỳ có lợi cho việc xây dựng kho dữ liệu quốc gia trong tương lai nói chung và xây dựng hệ thống eKYC nói riêng.
Đối với NHNN
– Xây dựng, phối hợp và hoàn thiện các văn bản pháp quy tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các QTDND tồn tại và phát triển bền vững trong thời kỳ chuyển đổi số.
– Sớm hoàn thành Dự án xây dựng Hệ thống thông tin quản lý, giám sát QTDND, tổ chức tài chính vi mô cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố và Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Đối với các bộ, ngành liên quan
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện CMCN 4.0, đặc biệt trong ngành tài chính, ngân hàng tại Việt Nam. Xây dựng các mục tiêu chương trình cụ thể thông qua Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia để hỗ trợ sự phát triển ứng dụng CNTT, tiến bộ khoa học công nghệ của CMCN 4.0 trong hoạt động của hệ thống TCTD nói chung và hệ thống QTDND nói riêng.
Bộ Tài chính có ý kiến ủng hộ việc bổ sung tăng vốn điều lệ cho NHHTX, hỗ trợ tài chính cho NHHTX và hệ thống QTDND để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, CNTT, đào tạo mới, đào tạo nâng cao cho cán bộ, nhân viên của các QTDND và NHHTX,… làm nền tảng chuyển đổi số phục vụ tốt cho thành viên và cộng đồng.
Các cấp chính quyền các địa phương cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan (như: NHNN, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Cơ quan truyền thông…) và các đơn vị cung cấp dịch vụ ngân hàng số chú trọng việc giáo dục và phổ cập kiến thức tài chính, nâng cao nhận thức của người dùng khi sử dụng các dịch vụ tài chính số…
Đối với Chính phủ
Tiếp tục có cơ chế, chính sách trong lĩnh vực ngân hàng thích ứng với cuộc CMCN 4.0 hỗ trợ chuyển đổi số thông qua việc tạo thuận lợi thúc đẩy mô hình kinh doanh, quản trị điều hành theo hướng bứt phá, đổi mới sáng tạo. Các chính sách tạo lập môi trường cho phát triển ngân hàng số gồm các chính sách tạo dựng nền tảng thông tin, cơ sở dữ liệu công dân quốc gia, quy định về quy trình eKYC và hoàn thiện hạ tầng hỗ trợ, cụ thể:
– Đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu xây dựng Luật Giao dịch điện tử thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử năm 2005 để tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan, giúp đẩy mạnh số hóa, ứng dụng kỹ thuật số, tạo môi trường giao dịch thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp qua kênh số, phương thức điện tử.
– Ban hành nghị định về định danh và xác thực điện tử và xây dựng hành lang pháp lý về bảo vệ dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu người dùng trên môi trường mạng. Ðồng thời, sớm hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư, có cơ chế cho phép ngành Ngân hàng được kết nối và khai thác, chia sẻ thông tin trực tuyến từ cơ sở dữ liệu này để đối chiếu, xác minh thông tin nhận biết khách hàng bằng phương thức eKYC.
– Ban hành các chương trình, kế hoạch hành động khuyến khích sự phát triển của thanh toán trực tuyến, khuyến khích công nghệ tài chính phát triển, các chính sách liên quan tới nguồn nhân lực, bảo vệ an toàn người dùng, nâng cao an ninh mạng. Các chính sách này cần hướng tới tạo môi trường thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng số, trên cơ sở tạo môi trường bình đẳng cho cạnh tranh, khuyến khích đổi mới và bảo vệ người tiêu dùng.
– Sớm hoàn thiện và áp dụng các cơ chế khuyến khích sự phát triển của công nghệ tài chính, đặc biệt là đối với hoàn thiện và áp dụng khung thử nghiệm pháp lý đối với phát triển công nghệ tài chính.
– Hỗ trợ khoản ngân sách thích hợp (giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Bộ Tài chính) để hỗ trợ tài chính cho NHHTX (như: tăng vồn điều lệ,…), hỗ trợ cho hệ thống QTDND có được phần mềm thống nhất thông qua NHHTX đầu mối thực hiện.
>>>Xem thêm bài viết: Ứng dụng của Internet of Things (IoT) trong ngân hàng – Onlinebank